Phòng Tuyến mà Quách Quỳnh xây dựng bên bờ bắc sông Hoàng Hà được chia thành nhiều lớp. Bắt đầu từ Đông qua Tây gồm Trường Yên – Phong Khâu- Nguyên Dương và Vũ Trác, chiến tuyến dài đến bốn trăm dặm ngăn chặn toàn bộ con đường có thể tiến vào Trịnh Châu.
Trường Yên – Phong Khâu- Nguyên Dương và Vũ Trác tuy chỉ là bốn cái huyện thành, thành trì không lớn nhưng chúng lại đặc biệt trung bình khoảng cách giữa các thành trì chỉ là 25-30km rất đều. Cho nên đám thành trì này sẽ cực kỳ tương hỗ với nhau.
Thêm vào đó xung quanh các thành trì này Quách Quỳ đã cho xây dựng công sự như hầm hào, lũy đất, cọc gỗ. Kỵ binh cực kỳ khó xung phong.
Kết nối giữa các thành trì này có một hệ thống các Trại cứ điểm rải rác, một hệ thống lũy đất hào sâu được bố trí tỉ mỉ khoa học nhiều lớp.
Trú đóng dọc theo phòng tuyến này chính là gần mười lăm vạn đại quân Tống triều tinh binh trong đó có một vạn năm ngàn kỵ binh thiện chiến.
Có thể nói phòng tuyến này đã là hết sức khó vượt qua, muốn đánh thông mười lăm vạn bộ kỵ phối hợp phòng tuyến này thì quân Liêu Đông tổn thương rất khó đoán định.
Ngay cả Liêu Đông có pháo lớn tân tiến hơn thì đã sao?
Pháo lớn muốn vận dụng trên chiến trường lớn, dã chiến rất khó, nó cần một lực lượng lớn các binh chủng khác phối hợp.
Ví như nếu Liêu Đông dùng pháo lớn ở phòng tuyến Hoàng Hà, họ phải kéo pháo tới gần ít nhất các các cứ điểm của quân Tống ba bốn dặm. Lúc này nếu quân Tống ùa ra đánh thì sao?
Dĩ nhiên không có bộ binh cứng hộ tống thì pháo lớn rất dễ bị phá hủy.
Kỵ binh Liêu Đông mạnh vì tính cơ động, có thể sử dụng vu hồi chiến thuật, theo đuôi tập kích, hai cánh tập kích, từ đó dần dần bào mòn bộ binh Tống như tách vỏ bắp cải.
Nhưng nếu thiết kỵ Liêu Đông kết hợp với pháo lớn thì họ sẽ mất đi tính cơ động, phải tập trung bảo vệ pháo, như vậy chiến trận dĩ nhiên Liêu Đông thiết Kỵ sẽ rơi vào sở đoản và bị số lượng đông đảo bộ binh Tống xiên chết. Thiết kỵ không có tốc độ chính là bia tập đâm cho bộ binh, điều này là cơ bản kiến thức quân sự.
Cho nên Liêu Đông không thể triển khai pháo lớn oanh tạc trận địa của quân Tống, muốn làm được điều này họ phải có một đội bộ binh ngang ngửa Tống để chơi đấu bộ binh, sau đó Kỵ binh sẽ tập kích nếu Tống dám ra doanh tiêu diệt pháo lớn.
Phòng tuyến hào lũy tuy nhìn không mạnh như thành trì nhưng tính cơ động cao, quân Tống có thể ồ ạt xông ra tạo thành trận hình dày đặc người. Còn thành trì chỉ mang tính chất thủ một cách thụ động, việc cho binh xuất thành tập kết là không đơn giản.
Điều này để minh giải vì sao phòng tuyến của quân Tống lúc này thực sự khó nhằn.
Phía Liêu Đông quân lần lượt tập trung ở Vệ Huy, Tuấn Hoạt, Bộc Dương cùng An Dương đối ứng nhìn chằm chằm vào phòng tuyến của quân Tống, chờ sơ hở sẽ đánh thốc vào.
Quân Tống cũng không dám công ra, mà quân Liêu Đông cũng không có lực tiến vào hệ thống phòng ngự của Tống.
Nhưng bất kỳ người nào cũng hiểu sự dằng co này chỉ là nhất thời.
Các bộ lạc thảo nguyên đang xuôi nam về Hà Bắc, quân Liêu Đông sẽ nhanh chóng được bổ xung thêm lực lượng.
Đại Tống nhiều người hơn, có đến năm mươi sáu mươi triệu dân, quân đội tính ra lên đến gần hai triệu người. Nhưng đó chỉ là con số, quân đội Đại Tống có thể đánh chỉ vào khoảng năm trăm ngàn, hoặc giả còn thấp hơn. Số còn lại chỉ là Sương quân, quân địa phương. Quân địa phương đánh không được, họ thực chất chỉ là nông dân được cấp vũ khí, hằng năm luyện tập tí tí, nếu có biến thì chưng dụng thủ thành. Đối với đám người này hành quân chiến đấu là không thể dùng ít nhất không thể coi là chủ lực chiến đấu chỉ có thể coi là pháo hôi hi sinh mà thôi.
Năm mươi vạn chủ lực của quân Đại Tống bao gồm Cấm Vệ Quân và Biên Quân.
Ở thời hiện đại, bộ đội biên phòng chưa hẳn là lực lượng mạnh nhất, lưc lượng mạnh nhất là các đơn vị quân khu nằm sâu trong nội địa. Vì sao lại vậy, đơn giản vì thời hiện đại có nhiều phương thức chuyển quân cho nên không nhất thiết phải bố chí quân mạnh nhất ở biên giới trừ những lúc biên giới đặc biệt căng thẳng.
Nhưng thời cổ biên quân bằng với lực lượng tinh nhuệ nhất, đó là bất di bất dịch. Bởi việc cực khó chuyển quân cho nên biên quân phải mạnh mới có thể phòng ngừa biên giới. Thời đại này quốc gia nào cũng phải đầu tư hết mức cho biên quân.
Điểm thứ hai khiến biên quân mạnh đó là vì họ liên tục phải chiến đấu, liên tục cọ sát, cho nên đám lão binh lưỡi đao liếm máu này rõ ràng rất mạnh.
Cấm Vệ quân là lực lượng mạnh thứ hai đứng sau biên quân, đơn giản vì đây là lực lượng bảo vệ hoàng tộc của một quốc gia. Cấm vệ quân đi theo hướng chọn lọc những anh tài trong quân tập trung thành một đội ngũ tinh tráng toàn người khỏe mạnh thể trạng tốt. Thêm vào đó đây là bộ mặt quốc gia cho nên luôn được đầu tư mạnh về trang bị.
Nhưng Cấm vệ quân ở những thời đầu lập quốc dĩ nhiên còn mạnh hơn biên quân, vì đó cũng là một đám lão binh, lại được tuyển chọn, rồi lại được trang bị tốt hơn biên quân. Nhưng nếu quốc gia không có nguy cơ uy hiếp chí mệnh trong thời gian dài thì Cấm vệ quân sẽ yếu đi rất nhiều vì đám này thực sự chưa ra chiến trường. Khi chưa thấy máu thì vẫn chỉ là tân binh, cho dù tân binh này có là tuyển chọn, có được trang bị tốt nhất vẫn là tân binh.
Lại nói quân Đại Tống có năm mươi vạn tinh binh trong đó mười vạn chính là Cấm Vệ Quân đã lâu không cọ sát chiến trận, đám này bất di bất dịch đóng ngay bên ngoài Biện Kinh bảo vệ thủ đô < quân khu thủ đô>.
Bốn mươi vạn biên quân của Đại Tống có ba mươi vạn đóng dọc Hà Bắc Sơn Đông đối kháng Liêu Quốc. Mười vạn còn lại đối phó Tây Hạ Đảng Hạt- Thổ Phồn ở hướng Tây An và Thái Nguyên.
Trong bốn mươi vạn biên quân này ít nhất đã chết đi hai đến ba vạn trong ba năm qua, tuy có bổ xung từ Sương quân nhưng chất lượng không đủ.
Biên quân Tống chết nhiều nhất có lẽ là do chiến cùng Đại Việt ở phương Nam. Nói chính xác là chết trong tay Lưu Kỷ và Thân Cảnh Phúc. Thứ hai chết là do chiến tranh cùng Nam Mân của Vương thị, trận chiến này chết khá nhiều do lần đầu Tống quân đối mặt với hỏa pháo của Nam Mân do chưa quen thuộc nên ăn thiệt thòi lớn.
Tính đi tính lại Đại Tống chỉ còn mười vạn Cám vệ quân ở Biện kinh và ba mươi bảy vạn biên quân tinh nhuệ. Nhưng Đại Tống lại bị Tây Hạ cùng Đại Liêu thừa vắng mà tấn công Thái Nguyên. Lúc này vì đối chiến cùng Liêu Đông, Mười vạn biên quân Thái Nguyên đến ba vạn rưỡi bí mật được chuyển đến Hà Bắc nhưng lại bị Càn Đạo Lý Bỉnh Thường hoàng đế Tây Hạ biết được, hắn kết hợp cùng Gia Luật Tuân tàn dư Đại Liêu tiến đánh chia cắt Thái Nguyên, trận này Tống phải chết ít nhất một vạn tinh binh.
Lúc này Đại Tống thực tế nhìn vẫn mạnh, vẫn đông quân nhưng dật gấu vá vai mất rồi.
Dương Kiệm em trai Dương Khôi, cháu Dương Nghiệp còn lại tàn binh bốn vạn biên quân Thái Nguyên được bổ xung thêm mười vạn sương quân từ các tỉnh thành lân cận thủ chặt Vận Thành không dám ra.
Ba vạn rưỡi tinh binh Thái Nguyên đi Bắc Hà trấn thủ các thành trì thì bị Ngô Khảo Tước thu phục gần như hết sạch hai vạn. Chỉ còn lại một vạn rưỡi vẫn còn theo Quách Quỳ, nhưng Quách Quỳ không dám trọng dụng đám quân Thái Nguyên này nữa rồi.
Tính ra tinh binh có thể sử dụng ở Hà Bắc của quân Tống chỉ còn hai mươi bảy vạn là cùng.
Nhưng vấn đề đó là Tam Mân phía Nam chưa bình, Sương quân phương nam không đủ sức đánh cùng bọn Vương Thị, Lưu Kỷ, Thân Cảnh Phúc cho nên phải chia biên quân phương bắc đến đây trấn bãi ( Phương Nam chưa bao giờ được coi là mối uy hiếp cho nên nơi này chỉ có thổ ti quân cùng sương quân)
Cuối cùng thực tế trong tay Quách Quỳ nhìn thì nhiều người nhưng chỉ có không đày hai mươi vạn.
Hai mươi vạn bộ binh là chính rất khó dã chiến cùng mười vạn kỵ binh được trang bị tận răng của Liêu Đông.
Nay quân Liêu Đông lại có một lượng lớn người từ thảo nguyên bổ xung vào Hà Bắc, nếu còn chần chừ thì mọi chuyện sẽ hỏng bét.
Nên nhớ Liêu đông người các bộ tộc du mục, hung hãn không sợ chết, chỉ cần mười ba đến mười lăm tuổi đã có thể mặc vào chiến giáp, lên ngựa cầm cung tên, đao kiếm mà chém giết.
Số lượng dân Liêu Đông Vương lãnh thổ cai quản lúc này ước chừng gần hai triệu người, nhưng nếu tổng động viên sẽ có đến năm mươi vạn thiết kỵ, vấn đề chỉ cần Liêu Đông Vương nuôi nổi thì hắn sẽ có rối đa chừng ấy quân có thể chiến đấu.
Đấy là điểm đáng sợ của người thảo nguyên, tuy ít dân nhưng toàn dân giai binh, ai cũng có thể trở thành chiến sĩ.
“ Những gì chuẩn bị cũng đã chuẩn bị đủ, Đại Thái giám, ngươi lên đường đi thôi”
Quách Quỳ không thể chờ thêm thời điểm này cũng coi như chín muồi, đại chiến có thể bắt đầu. Kế hoạch nên khởi động rồi.
Ngô Khảo Tước điên rồi, hắn tóc tai dũ rượi trong mưa quỳ ôm lấy hòm gỗ tuyệt vọng khóc lớn... Hắn khóc tâm nát phế liệt, hắn gào thét như dã thú khiến trời đất thiên địa đều biến sắc.
Bắc Bình vừa định không lâu, đại ca vừa về đến An Dương, chỉ cần đại ca đi sứ Tống Triều… có gì không thương lượng được. Tại sao họa binh đao lại đổ lên đầu những người yếu nhược tay không tấc sắt? Tại sao?
Ngô Khảo Ký run rẩy cầm trên tay tấm lụa quyển mà người Tống gửi đến.
“… Sâu sắc chia buồn… kẻ thủ ác chính là quân Liêu Đông gửi đến hộ vệ… bọn này sợ tội bỏ trốn Tây An… Đại Tống đang cố sức vây bắt hung thủ….”
Lụa lại có đoạn.
“… Trẫm thấy ngươi thương đau mất người thân không trách tội nữa, mau lui binh về Liêu Đông nếu không sẽ bị trừng phạt…”
“Khốn kiếp… khốn kiếp ta chém ngươi…”
Ngô Khảo Tước như mãnh thú phát cuồng, buông xuống hộp gỗ trong tay, huyết lệ như tuôn , rút ra bội đao, nhanh như hổ báo lao đến đám sứ thần người Tống muốn chém giết.
Không một ai dám ngăn cản trừ một người.
Cũng may Ngô Khảo Tích ở nơi này, hắn canh rất chuẩn thời gian, lao đến khóa chặt lấy Ngô Khảo Tước đang trong cơn điên loạn.
“ Bình tĩnh lại, có thể làm gì cũng được không nên chém sứ thần”
Ngô Khảo Tích la lớn.
Đám hoạn quan làm người đưa tin như bắt được cọng rơm cứu mệnh mà vùi đầu trong bùn nước la lớn…
“ Đại vương tha mạng, đại vương tha mạng chúng nô tài chỉ là người hầu… không liên quan chúng nô tài”
Ngô Khảo Tước như bình tĩnh được đôi chút, hắn quăng đao rút ra roi quất ngựa mà điên cuồng quật tín sứ Đại Tống.
Đám người Đại Tống im re, dù đau vẫn kìm nén không dám kêu, chỉ sợ kêu lên động phải sát tính của vị Đại Vương này.
Bị đánh đau không sao, nhục nhã không sao, sống trở về mới quan trọng nhất.
Đánh đám Tống Sứ đến mệt mỏi Ngô Khảo Tước không dừng lại.
Hắn hằm hằm tiến về phía chúng tướng, nhắm đúng một người đạp lăn ra đất sau đó điên cuồng quất roi.
“ Hô Luân Bối Đa, đồ chó ăn cây táo rào cây sung… ta đối sử ngươi không tệ ngươi dám sai con trai ám hại Trịnh Phi? Ngươi gan chó bao đảm, ta diệt tộc ngươi…”
Ngô Khảo Tước vừa điên cuồng quất vừa chân đạp tay đấm hành lạ vị lão thần này.
“ Đại Vương ta không có, ta không có sai khiến co trai ta làm vậy, ta tin tưởng nó cũng sẽ không làm chuyện khốn kiếp trên. Đây là người Tống ám hại chia rẽ chúng ta, xin Đại Vương minh sét, ta lấy cái chết chứng minh trong sạch”
Hô Luân Bối Đa lão tướng từ bùn đất như một con trâu nước lấm lem vọ tới một tên thân binh cướp lấy chiến đao đưa lên cổ muốn tự sát.
Choeng… "Muốn chết, đâu đơn giản, muốn chết để bảo toàn con gái con trai ngươi ở Vương Đình Liêu Đông, không có chuyện đó”
Chỉ thấy Ngô Khảo Tước nhanh tay hơn, hắn nhất đao vô địch thành danh, chỉ một chiêu nhưng tốc độ là tốc độ ánh sáng, đao của Hô Luân Bối Đa bị đánh bay ra ngoài.
Ngô Khảo Tước tóc tai lõa xõa gương mặt điên cuồng như ác ma, đôi mắt đỏ ngàu tơ máu nhìn Hô Luân Bối Đa cười khinh bỉ.
“ Bắt lấy , nhốt toàn bộ Hô Luân gia tộc vào ngục chờ thẩm vấn”
Đoạn Ngô Khảo Tước nhìn về sứ thần của Đại Tống mà quát lớn.
“ Cút”
“ Vương đệ khoan đã, giao đám sứ thần này cho ta trước tiên” Ngô Khảo Tích lên tiếng can ngăn.
“ Tùy ngươi… lần này là lần cuối, ngươi nên nhớ ở nơi này ta là vương ngươi là thần, nếu ngươi còn lấy thân phận đại ca lên mặt thì cút về Đại Việt” Ngô Khảo Tước điên cuồng chỉ vào Ngô Khảo Tích quát mắng.
Ngô Khảo Tích không đáp lời nhưng thái độ cực kỳ không tốt, hắn phất tay áo quay lưng bước đi, chỉ hừ một tiếng thật lớn.
Tình cảm huynh đệ rạn nứt, ai cũng nhìn ra.
Đại Việt chuyển mình sang một trang sử mới. Ông trùm trọng sinh về triều đại nhà Lý, bình đình nội loạn, mang gươm đi mở cõi, khai cương khuếch thổ, viết nên kỳ tích huy hoàng của dân tộc con rồng cháu tiên. Mời xem