Bởi vì Thẩm Hằng, trong lòng Sơ Xuân lại dấy lên kỳ vọng, hoặc nói là hy vọng xa vời, nàng không muốn Thẩm Hằng chết, nàng đã sớm coi Thẩm Hằng như người thân duy nhất trên đời, là người nàng quan tâm nhất để ý nhất, nếu Thẩm Hằng đã chết, Sơ Xuân sẽ lại lạc lõng trên thế gian này, không biết phải sống sót thế nào.
Mang theo phần hy vọng xa vời này, mỗi ngày Sơ Xuân đều đến Phật đường quỳ hai canh giờ, tụng kinh niệm Phật. Nàng lại một lần nữa đặt hy vọng vào trời cao, nàng ở trước Phật đường sâu sắc sám hối sự bất kính đối với ông trời, nàng tình nguyện trả giá bằng tất cả để đổi lấy tính mạng của Thẩm Hằng.
Hai canh giờ quỳ lạy, chân Sơ Xuân mềm nhũn tê mỏi, nàng run run đứng dậy khỏi bồ đoàn, đột nhiên thân thể lảo đảo ngã sang bên, may mà có một đôi tay đúng lúc xuất hiện đỡ lấy nàng.
Sơ Xuân kinh ngạc quay đầu nhìn lại, đối diện với ánh mắt trách cứ của Thẩm Hằng, nàng mỉm cười, nói: “Sao chàng lại tới đây?”
“Nếu ta không đến, nàng còn định quỳ đến khi nào?”
“Không phải ta đã đứng dậy rồi sao?” Sơ Xuân cười ra vẻ không sao cả.
Thẩm Hằng nhìn Sơ Xuân, không nói một lời.
“Chàng sao vậy? Nói gì đi chứ?” Sơ Xuân nói.
“Cầu người không bằng cầu mình, dù cho người nàng cầu là Phật tổ.” Thẩm Hằng nhìn Sơ Xuân, “Phật không cứu được ta, cũng không thể cứu được nàng, chỉ có chính mình mới có thể cứu được bản thân, cũng chỉ có chính mình mới có thể giúp được bản thân, cầu ai cũng vô dụng. Nếu như muốn sống tốt, chỉ có thể dựa vào bản thân. Sau khi ta mất, nàng nhất định phải sống thật tốt, vi mình mà sống.”
Tim Sơ Xuân như bị kim đâm, cách một tầng hơi nước, hai mắt đẫm lệ ngóng nhìn Thẩm Hằng, nức nở nói: “Thẩm Hằng, ta không muốn chàng chết, ta không muốn chàng rời khỏi ta.”
Thẩm Hằng khẽ vén lọn tóc ra sau tai cho Sơ Xuân, dịu dàng nói: “Người xét cho cùng sẽ có lúc phải chết, ta chẳng qua chỉ đi sớm hơn thôi.”
Sơ Xuân ch.ảy nư.ớc mắt nhìn Thẩm Hằng: “Thẩm Hằng, chàng coi ta là gì?”
Thẩm Hằng nhếch môi khẽ cười: “Thê tử.”
Sơ Xuân cười khổ: “Nếu chàng biết được quá khứ của ta thì chắc chắn sẽ không nghĩ như vậy đâu.”
“Vì sao ta phải biết? Ta chỉ biết là giờ phút này ở bên cạnh ta bầu bạn với ta là nàng; khi ta ốm đau nằm liệt trên giường, người ngày ngày đêm đêm chầu trực bên cạnh ta cũng là nàng; ta không quan tâm quá khứ của nàng, ta chỉ để ý người đứng cạnh ta hiện tại là Sơ Xuân.” Ánh mắt Thẩm Hằng vô cùng kiên định.
Sơ Xuân ngơ ngẩn nhìn hắn, trong lòng có nỗi đau nói không thành lời, chàng cho ta tất cả những gì ta muốn, nhưng ta lại không có được chàng.
“Thẩm Hằng, cho ta một đứa trẻ đi.” Sơ Xuân nhìn thẳng vào mắt Thẩm Hằng.
Thẩm Hằng cúi đầu nhìn Sơ Xuân, mày kiếm nhíu lại thật sâu, không biết phải từ chối ra sao.
“Cho ta một đứa trẻ đi!” Sơ Xuân nắm chặt vạt áo trước ngự.c Thẩm Hằng, lệ rơi đầy mặt, “Cho ta một hi vọng để sống, được không? Ta cầu xin chàng, cho ta một hy vọng.”
Thẩm Hằng ôm Sơ Xuân vào trong lòng, nhẹ nhàng vỗ về lưng nàng, giọng nói khàn khàn: “Được.”
Hai tháng sau, Sơ Xuân có thai, Thẩm gia nghênh đón hạnh phúc đã lâu, hai vị nhà họ Thẩm không ngại thân phận vui mừng phát khóc.
Sơ Xuân nói, đó là mười tháng hạnh phúc nhất trong đời nàng, nhưng cũng là mười tháng nàng đau khổ nhất. Trong mười tháng này, mỗi ngày nàng đều cảm nhận được sinh mệnh lớn dần trong bụng, đó là con của nàng và Thẩm Hằng, là hi vọng để nàng sống sót; nhưng đồng thời mỗi ngày nàng lại cảm nhận được sinh mệnh dần héo rũ của Thẩm Hằng, nàng không biết phải làm gì khi thấy khoảng cách giữa nàng và Thẩm Hằng càng lúc càng xa.
Về sau, Sơ Xuân sinh ra một nhi tử, trắng trẻo mập mạp khỏe mạnh cường tráng, mặt mày rất giống Thẩm Hằng.
Thẩm Hằng đặt tên cho nhi tử là Thẩm Khang, không cầu gì khác, chỉ mong con trai có thể khỏe mạnh cường tráng lớn lên.
Mười ba ngày sau khi nhi tử sinh ra, sinh mệnh của Thẩm Hằng cũng đến tận cùng.
Trước khi chia lìa, Sơ Xuân ôm con ngồi bên giường Thẩm Hằng rơi nước mắt như mưa, không ngừng gọi tên hắn.
Thẩm Hằng khó nhọc vươn tay lau nước mắt thay Sơ Xuân, cười an ủi nàng: “Xuân Nhi đừng khóc, nhớ kỹ, phải sống vì mình, sống cho thật tốt.”
“Chàng không đi có được không? Bản thân ta không làm được, ta không làm được.” Sơ Xuân gào khóc cầu xin.
“Sau khi ta mất cha nương nhất định sẽ làm khó nàng, nàng phải nhớ, tương lai bất kể có gặp phải khó khăn gì, đều phải học được cách kiên cường đối mặt, cầu người không bằng cầu mình, trừ nàng ra, không ai có thể giúp nàng.” Hơi thở của Thẩm Hằng dần trở nên yếu ớt, ánh mắt nhìn về phía Sơ Xuân có lưu luyến cùng lo lắng nói không kể hết.
“Ta không làm được, ta không làm được.” Sơ Xuân nắm chặt tay Thẩm Hằng.
“Nhớ kỹ, sống cho tốt, sống vì mình.”
Thẩm Hằng không nỡ rời xa thê nhi của mình, “Nàng vĩnh viễn là thê tử của ta, là mẫu thân duy nhất của con ta, cho nên, mang theo kỳ vọng của ta mà sống, vĩnh viễn đừng từ bỏ.”
Nói xong, Thẩm Hằng nhắm mắt, không bao giờ còn mở ra nữa.
...
Nghe đến đó, ta đã sớm lệ rơi đầy mặt, tiếc nuối thay cho kết cục của Sơ Xuân và Thẩm Hằng, vì sao người có tình không thể thành gia quyến? Vì sao ông trời lại không công bằng như vậy? Vì sao Sơ Xuân không thể có kết cục tốt?
Hai mắt Mộ Hàn đẫm lệ mông lung nhìn trời đêm ngoài cửa sổ, ta biết, nàng đang nhớ đến Thẩm Hằng.
Kết cục sau khi Thẩm Hằng rời đi, hai vị nhà họ Thẩm gia đuổi Sơ Xuân ra khỏi Thẩm gia ngay khi con trai nàng tròn tháng tuổi, bọn họ không cho phép tôn tử duy nhất của mình có một người mẹ ruột không rõ lai lịch, huống chi này người mẹ này đã từng gả cho người khác. Mặc cho Sơ Xuân có tê tâm liệt phế khóc lóc cầu xin thế nào, hai vị nhà họ Thẩm đều không hề thay đổi ý định, nhượng bộ lớn nhất của bọn họ đó là cho phép Sơ Xuân may hai bộ y phục cho nhi tử vào sinh thần hằng năm, cũng để nàng như nha hoàn vào phủ đưa quần áo, trốn ở góc phòng lén nhìn nhi tử một cái.
Cho dù Sơ Xuân cực kỳ đau lòng nhưng nàng không thể chết được, bởi vì nàng mang theo kỳ vọng của Thẩm Hằng mà sống, nàng nhất định phải sống, sống vì bản thân, hơn nữa còn phải sống thuận lợi như cá gặp nước, như vậy nàng mới có thể không khiến Thẩm Hằng thất vọng.
Sau khi rời khỏi Thẩm gia, Sơ Xuân dùng số tiền Thẩm gia cho mở phường ca múa, trong phường thu nhận không ít thiếu nữ lang thang không có nhà để về. Sơ Xuân nói, nàng không muốn những nữ tử này giẫm lên vết xe đổ của nàng.
Sơ Xuân còn tự đổi tên cho mình thành Mộ Hàn, nàng nói, sau Sơ Xuân không có Mộ Hàn, nhưng Mộ Hàn rồi lại có Sơ Xuân*.
(*Sơ Xuân là chớm đầu xuân. Mộ Hàn là chiều se lạnh. ‘Sau Sơ Xuân không có Mộ Hàn’ ví như sau mùa Xuân không phải mùa Đông. Còn ‘Mộ Hàn rồi lại có Sơ Xuân’ là Đông rồi lại đến Xuân.)
Ta nhìn Mộ Hàn, một câu cũng không nói nên lời, bất cứ lời an ủi nào vào thời khắc này đều trở nên vô dụng.