chapter/4“Ôi dào, đè lên nhà xí, khiến cả căn nhà vừa khai vừa thối.” Lục Kiều Kiều cười hì hì đáp. Kỳ thực nhà cửa ở nông thôn thời xưa, cống thoát nước đều ở phía Tây Nam, nhà xí đương nhiên là ở đó rồi.
“Đúng là thần tiên sống! Sái mỗ khâm phục!” Sái Tiêu đã hoàn toàn tin tưởng vào tiểu cô nương này.
“Mấy bữa trước tôi đánh bài Thiên Cửu, ngồi ăn liền chín ván, cả đời tôi chưa từng đỏ đến như vậy, đánh một đêm thắng được mười mấy lạng bạc. Chuyện cái nhà xí cũng đúng nốt, tường đổ làm vỡ cả cái hố xí, giờ vẫn chưa sửa được. Đạo trưởng quả là cao nhân, nào nào, để Sái mỗ rót trà cho cô nương!”
Sái Tiêu vội ân cần rót trà cho Lục Kiều Kiều. Lục Kiều Kiều làm dáng, mỉm cười cầm chiếc quạt tròn che khuôn miệng anh đào, ra vẻ bẽn lẽn thẹn thùng lắm. Lần này, đến lượt Sái Tiêu cuống lên, sốt sắng hỏi ngay: “Cô nương này, đạo trưởng bảo tôi sắp gặp họa sát thân phải không? Ngài có nói là việc gì không?”
Lục Kiều Kiều không vội trả lời, cô đang mải quan sát lũ trẻ dưới lầu ăn bánh bao xá xíu. Mục tiêu của Lục Kiều Kiều không phải ba đứa con gái, cô chỉ nhìn tới ba thằng con trai. Thằng bé xinh xắn mặc bộ đồ màu đen vừa ăn vừa chơi, sờ cái nọ với cái kia, những đứa xung quanh nó đều chẳng được yên thân. Đôi mắt nó đảo tròn nhìn quanh, dạng này tâm trí bất định, không phải người Lục Kiều Kiều cần. Thằng béo thì lại béo quá, không phải Lục Kiều Kiều ghét thằng béo ấy, nhưng người cô muốn tìm không thể béo, còn cách ăn uống thế nào thì thoải mái.
Thằng bé tóc vàng cầm bánh bao lật ngược lại như thể bưng bát, ăn từng miếng nhỏ, như vậy nhân thịt trong bánh không rơi xuống đất chút nào. Mắt nó nhìn chăm chăm xuống mặt đất trước mặt, không chủ động đùa nghịch với những đứa trẻ khác. Lục Kiều Kiều rất hài lòng với lối ăn uống như vậy, cô cần một đứa có tính cách này. Biết nghe lời, không sinh sự.
Lục Kiều Kiều nhìn bọn trẻ ăn xong, quay đầu lại nói với Sái Tiêu: “Dạ vâng, đạo trưởng đã nói, thân phụ ngài vốn dĩ không đáng mất sớm như vậy, song bên ngài có sao Bạch Hổ chiếu, năm nay lại phạm Thái Tuế xông Bạch Hổ, sao Bạch Hổ phát tác, làm tổn hại đến con người. Cha ngài nếu gắng gượng được qua mùa thu năm nay thì sẽ vô sự, tiếc rằng lại khắc với sao Bạch Hổ nên không qua nổi tiết Trung Thu. Sao Bạch Hổ xét theo ngũ hành thì thuộc Kim, đến mùa thu càng hung hãn hơn, người ta vẫn nói “kim thu” là vì thế, đến lúc ấy, không chỉ có ông cụ chết vì xung khắc thôi đâu… giờ đã sắp tháng Tám rồi, ngài là chủ nhà, nội trong ba bảy hăm mốt ngày, e khó tránh khỏi đại nạn…”
Sái Tiêu ngồi thần ra tại chỗ, toát mồ hôi đầm đìa.
Lục Kiều Kiều thấy vậy, trong lòng hết sức vui mừng, nói nhăng nói cuội so với việc tính toán kỹ lưỡng thì nhàn hạ hơn nhiều. Cô lại chỉ xuống dưới hỏi: “Mấy đứa bé trai dưới lầu có phải họ hàng thân thích của ngài không?”
Sái Tiêu nói: “Thằng béo là người làng, bố nó chết vì bệnh đậu mùa, mẹ nó dẫn theo nó cũng chẳng có cách nào, đành để nó tới chỗ tôi kiếm bát cơm ăn. Thằng áo đen là thằng tôi bỏ tiền mua về, bố nó đánh bạc thua sạch, phải bán con trả nợ, nó cũng giống bố nó, cả ngày chẳng lúc nào đứng đắn. Thằng tóc vàng thì được tôi nhận về hồi bọn quỷ Hồng Mao đánh Quảng Châu mấy năm trước. Bố mẹ nó bị giết chết cả, nó một thân một mình đi khắp nơi ăn xin, khi tôi mở gánh mãi võ, trông thấy nó nhặt đồ ăn trên đường, thắng bé có bảy tám tuổi mà phải đi ăn mày như vậy kể cũng thật đáng thương, thế là tôi giữ nó lại trong gánh mãi võ, cho nó học ít công phu kiếm miếng cơm ăn… bọn chúng nó là sao Bạch Hổ à?”
Lục Kiều Kiều tỏ vẻ nghiêm túc nhìn xuống dưới lầu, sau đó quay lại nhìn vào mắt của Sái Tiêu, nói vẻ thâm trầm: “Sao Bạch Hổ chính là đứa bé tóc vàng.”
Lục Kiều Kiều lại dấn thêm một bước, nói ra nhận xét của mình: “Thằng nhóc này cao số, mệnh Bạch Hổ trên thì húc cho rơi, dưới thì đạp cho rụng, tức là già trẻ lớn bé quanh nó đều phải chết hết, nó mới sống được. Sao Bạch Hổ cứ bốn năm khắc một lần, lần trước đã khắc bố mẹ nó, giờ lại đến kỳ hạn bốn năm, đã bắt đầu phát tác rồi, Sái sư phụ cứ nhìn mái tóc vàng của nó là biết nó không phải người bình thường, thật sự rất nguy hiểm đấy…”
Sái Tiêu cũng nhìn lũ trẻ dưới lầu hồi lâu, đoạn thở dái nói: “Tôi đâu thể đuổi nó đi được, nói gì thì nói cũng đã ở chung mấy năm, dạy nó đâu ít thứ, nó là đứa ngoan ngoãn, làm việc hay luyện công đều chăm chỉ nhanh nhẹn… Vả lại trong gánh mãi võ, nó cũng là đứa giỏi kiếm tiền.”
“Cha ngài cũng bị nó khắc cho chết rồi, ngài không nên vì mấy chục đồng mà không tiếc tính mạng như vậy, Sái sư phụ…”
“Ài, đuổi thằng bé đi, tôi làm sao nỡ nói…” Sái Tiêu cau mày, vẻ mặt đau khổ, qua lời nói có thể thấy ông ta cũng là người lương thiện.
Lục Kiều Kiều có cách riêng để đối phó với người tốt, cô bảo Sái Tiêu:
“Sái sư phụ, sao Bạch Hổ cao số, song không cao hơn pháp thuật của sư phụ tôi. Thế này đi, tôi sẽ đưa cái tai vạ này lên núi, trên núi có sư phụ tôi trấn yểm nó sẽ không phát tác được nữa, cũng coi như cho nó một con đường sống.”
Cô ngừng lại nhìn Sái Tiêu, thấy vẻ mặt Sái Tiêu vẫn khó coi, bèn cười nói: “Sái sư phụ nuôi cái tai vạ này cũng mấy năm rồi, cơm áo gạo tiền bỏ ra cũng không ít, chúng tôi thu nhận nó, sẽ trả cho Sái sư phụ một cái hồng bao, lại tặng thêm ngài một đạo bùa linh hóa sát, vừa giải sao xấu vừa giúp ngài phát tài vượng khí, bảo đảm nửa đời sau ngài sẽ liên tục gặp phúc may.” Nói đoạn liền moi từ túi áo trong ra một tờ ngân phiếu năm lạng, đưa cho Sái Tiêu. Tờ ngân phiếu là phiếu do Nhật Thăng tiền trang ở Sơn Tây phát hành đã lâu năm, thương hiệu cũ uy tín lớn, chất bạc tốt, còn đảm bảo hoàn đủ tiền. Sái Tiêu cũng là người biết hàng, nhìn thấy ngân phiếu liền mừng rơn, vội đồng ý ngay. Ông ta mở gánh mãi võ, toàn thu về tiền lẻ, một tháng cũng chẳng kiếm nổi năm lạng bạc, lại phải nuôi một đống người. Người ta nói của đi thay người, lần này ông ta vừa được của vừa trừ tai, đâu có chuyện không mừng cho được. Lục Kiều Kiều cũng rất hoan hỉ, chỉ hiềm chưa chạy được ngay ra ngoài cửa Nam cười lớn ba tiếng, có điều lúc này không thể lộ nụ cười ra mặt, đành phải cố nuốt xuống.
Giờ một đứa bé mấy tuổi cũng phải mười lạng bạc, đứa biết làm lụng lại có sức khỏe càng đắt, từ mười mấy lạng đến mươi lạng vẫn còn là được giá. Vậy mà lần này chỉ cần năm lạng bạc đã mua được một đứa bé trai dễ sai dễ bảo, nếu không phải bản thân đang cần dùng người, bán qua tay vẫn kiếm được khối tiền.
Lục Kiều Kiều lại moi trong túi thơm ra một đạo bùa giấy vàng gấp thành hình tam giác, hỏi trà lầu xin một cái hồng bao, bỏ ngân phiếu và bùa vào, trao vào tay Sái Tiêu.
Sái Tiêu vui mừng nói: “Chao ôi, cảm ơn cô nương quá. À không phải, cảm tạ ơn cứu mạng của đạo trưởng… À không phải, đa tạ đạo trưởng và đa tạ cô nương, khà khà…”
Năm lạng bạc này là chút báo đáp của Lục Kiều Kiều dành cho người tốt bụng, nếu bản thân ông ta vì lòng ích kỷ mà đuổi đứa trẻ đi, thì một xu cũng đừng hòng lấy lại được.
Hai người giao dịch hoàn tất, cùng xuống dưới lầu, sắc trời đã bắt đầu sẩm tối.
Sái Tiêu tới trước mặt lũ trẻ, dẫn thằng bé tóc vàng lại bên Lục Kiều Kiều, xoa tóc thằng bé nói: “Này Hoàng Mao, con thu dọn đồ đạc rồi đi theo chị này ngay hôm nay đi, Sái thúc không nuôi nổi con nữa, sau này con cũng đừng trở lại đây, phải nghe lời chị đấy!”
Thằng bé tóc vàng sững sờ, ngẩng mặt lên nhìn.
Đêm hôm đó, Lục Kiều Kiều đặt tên cho thằng bé tóc vàng là An Long Nhi.
Sáng sớm hôm sau, Lục Kiều Kiều thức dậy, hút xong hai cữ thuốc, đã cơn nghiền, liền bôi son trát một lớp phấn thật dày, vận chiếc áo khoác màu lục thêu hoa đỏ sẫm, tinh thần lâng lâng, dắt An Long Nhi ra khỏi nhà. An Long Nhi đi theo sau Lục Kiều Kiều, một tay xách một chiếc làn, trong làn có ấm trà và ly trà, hạt dưa, hoa quả, tay kia giương chiếc ô tây che cho Lục Kiều Kiều.
Lục Kiều Kiều không quay đầu lại, hỏi thằng bé: “Có nhớ tên mình giờ là gì không?”
An Long Nhi trả lời: “Dạ nhớ. Là An Long Nhi.”
Lục Kiều Kiều lại hỏi: “Có nhớ mình là ai không?”
An Long Nhi trả lời: “Cháu là cháu cô, cô là cô cháu.”
“Cô là thế nào?” Đồ đạc đều nằm trong tay An Long Nhi, Lục Kiều Kiều chỉ cầm chiếc quạt tròn bằng the mỏng và một chiếc túi thơm, xưa nay cô chưa từng được rảnh tay như vậy bao giờ, nên tâm trạng rất phấn khởi.
“Cô tức là em ruột của bố cháu.” An Long Nhi theo sau Lục Kiều Kiều, tò mò quan sát đường phố Tây Quan.
An Long Nhi theo Sái Tiêu mãi võ, chỉ ra vào phía Đông thành Quảng Châu, chưa từng đến Tây thành, hằng ngày ra khỏi nhà, đi qua đi lại cũng chỉ có mười tám cái chợ thường đến, gặp ngày mưa không mở gánh thì một tháng cũng ra khỏi nhà tầm hai mươi ngày, đã quen nhìn dân cư thật thà cục mịch và quân doanh quan phủ ở phía Đông thành, giờ mới biết Tây thành còn có ngõ liễu tường hoa lòe loẹt xanh đỏ, và rất nhiều cô gái xinh đẹp hiếm khi được gặp ở Đông thành, nó trông đến hoa cả mắt.
Lục Kiều Kiều như thường ngày, hễ ra khỏi cửa là đi tới ven đầm Bạch Nga. Cô đến chỗ thuyền hoa xếp hàng rợp mắt ở ven sông, đi ra chỗ gốc cây đa có nhiều chị làm thuê, ở đợ đang tụ tập. Những người này đều làm thuê ở các chốn phong nguyệt, Lục Kiều Kiều rất quen thuộc với họ. Những người làm công này khác hẳn người làm công trong các nhà phú hộ. Người làm công trong nhà phú hộ đều là hạng ăn lương, còn những chị những bà giúp việc ở chốn phong nguyệt lại là chủ bé, góp vốn với chủ lớn mở thuyền hoa hoặc kỹ viện, họ rất thân với đám kỹ nữ, một mặt chăm lo việc ăn uống vệ sinh của khách, một mặt giao dịch ngầm cho đám kỹ nữ, ở giữa ăn hoa hồng, chia chác với chủ lớn.
Mỗi sáng, đám người làm công này đều đi chợ mua thức ăn, sau đó tranh thủ chút thì giờ rảnh rỗi túm tụm lại ven sông trò chuyện, trao đổi thông tin hành lang. Họ là những người nắm rõ nhất mọi tình huống ở chốn phong hoa tuyết nguyệt này, cô nào không thu được tiền, khách nào có bệnh hoa liễu, nội trong một ngày đều sẽ phát tán đi từ nơi đây.
Lục Kiều Kiều có mối làm ăn với họ, mỗi sáng cô đều đảo qua đây, các bà các chị sẽ giới thiệu các cô kỹ nữ muốn xem số mạng cho Lục Kiều Kiều, còn Lục Kiều Kiều sẽ trả tiền hoa hồng cho bọn họ. Vì danh tiếng của Tiểu Thần Bà Lục Kiều Kiều trong giới phong nguyệt cũng khá nổi, còn đến tận nơi phục vụ từng người, đương nhiên chi phí đắt đỏ, song khi trả tiền hoa hồng lại thoải mái xông xênh, các chị làm công đều rất thích qua lại với cô.
Đám làm công đang ở bên đó chụm đầu chuyện trò sôi nổi, chỉ thấy làn đi chợ nằm chỏng chơ dưới gốc cây đa, mấy chục người đàn bà quây thành một vòng ríu ra ríu rít. Lục Kiều Kiều bảo An Long Nhi ngồi ở bên ngoài đợi, rồi tự mình bước đến lanh chanh nói theo.
Cô tự rót trà cho mình, đi lại chỗ đám đàn bà. Lục Kiều Kiều thân hình nhỏ nhắn, đứng ở sau lưng mấy bà mấy chị chẳng nhìn thấy gì cả, bèn chen vào chính giữa, chống nạnh cùng mọi người nghe một bà chị béo tốt lớn tiếng kể:
“Bỗng ‘tùm’ một tiếng có tiếng nhảy xuống sông, chúng tôi hãi quá, vội lao ra cứu người. Người đàn ông đến cùng vị khách đó và đầu bếp trên thuyền của chúng tôi đều nhảy xuống sông định cứu ông ta lên, song mò mãi không thấy đâu. Người nhảy xuống sông cứ như tảng đá lớn, cứ chìm nghỉm xuống dưới, chẳng có bong bóng nước gì nổi lên, đúng là quỷ quái.”
“Bấy giờ là nửa đêm, thuyền ở giữa dòng, đang định quay về bờ bên này…”
“Nếu ông ta đến chơi một mình, lại nhảy từ thuyền của chúng tôi xuống sông chết đuối, chúng tôi chắc chết cả nút, loại người lắm tiền này mà chết, chúng tôi có chết mười lần cũng không đền nổi, may mà có người đi cùng, có thể làm chứng chúng tôi không giết người, bằng không dẫu nói thế nào cũng chẳng xuôi, chúng tôi chắc chắn sẽ bị phán là giết người cướp của, bị chém đầu hết…”
Có chị còm nhom hỏi chị béo: “Liệu có phải nghĩ không thông không, chứ vô duyên vô cớ ai lại làm thế? Thật là kỳ quái.”
Chị béo nói: “Đang uống rượu thì ông ấy đột nhiên giở trò, hất tung hai cái bàn, còn gào lên bảo muốn giết người, rồi đánh người loạn cả lên, lại muốn tìm đao, chúng tôi tưởng ông ta uống rượu say nên phát cuồng, bèn sai người giữ chặt ông ấy lại rồi đưa thuyền về đầm Bạch Nga, nhưng ông ta còn cắn người nữa chứ lị, có người bị ông ta cắn đứt nửa miếng thịt trên tay, ông ta giằng khỏi những người khác, cứ thế đâm đầu nhảy xuống dòng Châu Giang…”
“Tối hôm kia, vừa lên bờ liền báo quan ngay, nhưng hôm qua quan phủ chỉ sai người đến hỏi một lần, đến giờ vẫn không quay lại.” Các bà chị mồm năm miệng mười bàn tán về việc này, đều nói rằng người đó phát rồ phát dại rồi.
Lục Kiều Kiều lấy làm kỳ quái, sao chuyện Đặng Nghiêu kể cho cô nghe lại xảy ra đồng thời cùng chuyện này vậy.
Lục Kiều Kiều cũng xen vào hỏi chị béo: “Người nhảy sông chết đuối là ai vậy? Có phải khách quen không?”
Chị béo nói: “Không hẳn khách quen, song cũng đến thuyền chúng tôi dăm ba lần, là cái tay buôn đồ hải sản, họ Quách, vẫn gọi là ông chủ Quách.”
“Cũng họ Quách?” Lục Kiều Kiều thấy ớn lạnh trong lòng.
Hiếu kỳ là đức tính quan trọng nhất của người theo Đạo thuật, ai học Đạo thuật đều hiếu kỳ gấp trăm gấp chục lần người bình thường, sẵn sàng trả mọi giá để thỏa mãn lòng hiếu kỳ của mình.
Khi biết người khách làng chơi nhảy xuống dòng Châu Giang tự sát cũng họ Quách, lòng hiếu kỳ của Lục Kiều Kiều theo lệ lại trỗi dậy mạnh mẽ. Cô chen ra khỏi đám các bà chị, nói với An Long Nhi: “Nhóc con thật tốt số, vừa đến nhà cô đã có kịch hay để xem. Đi theo cô, cô dẫn mày đi xem phong thủy.”
Nói đoạn, cô liền gọi một chiếc xe kéo, chạy thẳng đến căn hung trạch có Quách đại nhân tự sát ở phường Giáp Công. Xe dừng lại trước ngõ phường Giáp Công, vừa đi vào ngõ, Lục Kiều Kiều vừa giảng cho An Long Nhi: “Mỗi một nơi, mỗi một con phố, mỗi một căn nhà đều là cơ thể sống, đều có vận khí riêng, có tốt, có xấu.”
“Cái ngõ này vận khí không tốt, có thể thấy ngay từ cánh cổng ở đầu ngõ, đôn đá tròn dưới hai cột trụ đã đen từ dưới đen lên kìa.”
Lục Kiều Kiều lại chỉ xuống mặt đất nói: “Giữa con đường lát đá cũng có một dòng khí đen chạy từ đầu tới đuôi, đó là bởi ngõ này vận khí yếu ớt, dương khí không đủ, sống trong ngõ, người vượng nhất cũng như người yếu nhất đều có thể vì vậy mà gặp chuyện.”
An Long Nhi không hiểu cho lắm, liền nói: “Cô Kiều, vì sao người vượng nhất cũng có chuyện?”
“Độc dương bất sinh, cô âm bất trưởng, việc gì thái quá đều sẽ chạy về cực bên kia. Cũng như thời tiết vậy, sau khi nóng hầm hập sẽ đổ mưa, người có vận khí quá vượng có thể sẽ đột tử, nếu không sẽ khiến người quanh thân mình liên tục gặp chuyện, cái gọi là ‘Dương tận âm sinh’ cũng chính là ý này.” Lục Kiều Kiều vừa chuyện trò với An Long Nhi, vừa ngó nghiêng xem cổng nhà dân ở hai bên phường Giáp Công.
Lục Kiều Kiều bước tới trước một cổng lớn khóa chặt, bảo An Long Nhi: “Đây chính là nhà của Quách đại nhân.”
“Ở đây có rất nhiều hộ giàu có, sao cô lại biết là nhà này?” Thấy khó hiểu, An Long Nhi liền hỏi.
“Bởi trước cửa đã viết kìa…” Lục Kiều Kiều nhìn hai con sư tử nhỏ ở trước cửa.
Cô gọi An Long Nhi lại nói: “Mày xem trên đầu con sư tử đá ở bên trái có vết mốc trông như đốm đen, lại ở bên phải gáy nó. Căn nhà này tọa Nam hướng Bắc, gáy bên phải của con sư tử nằm hướng Nam chính là cung Càn ở phía Tây Bắc, Càn là cha, con sư tử bên trái là vị trí Thanh Long, tượng trưng cho đàn ông, nhà này nếu xảy ra sự cố đều nhằm vào nam đinh.”
An Long Nhi gật đầu, song vẫn còn lơ mơ.
“Song cũng không đến nỗi phát rồ lên giết người nghiêm trọng như thế chứ…” Lục Kiều Kiều lẩm bẩm, đứng trước cổng nhà họ Quách, xem xét bốn phía chung quanh.
Chợt Lục Kiều Kiều nhìn thấy trên khung cửa một nhà ở ngõ đối diện chếch bên phải có một tấm gương Bát Quái to như cái đĩa đựng nước mắm chiếu vào cửa nhà họ Quách.
Cô bước tới xem kỹ tấm gương. Loại gương Bát Quái này đầu đường cuối phố đâu cũng bán, là thứ vật dụng trấn yểm rất phổ biến. Tấm gương này dường như vừa mới đặt cách đây không lâu, không đóng đinh trên xà ngang, mà lại dùng dây đồng treo dưới mái hiên một cách cẩu thả, tấm gương vừa vặn chĩa vào cổng lớn của nhà họ Quách, trông hơi lệch, thực ra là phương hướng cố định được cố ý chỉnh bằng dây đồng.
Lục Kiều Kiều thấy trong nhà có người, liền gọi vọng vào. Một bà già hơn sáu mươi tuổi bước ra.
Lục Kiều Kiều hỏi bà già xem tấm gương này có phải do nhà họ tự treo không, bà già bảo không biết việc này, nhà họ từ trước tới nay chưa hề treo gương.
Hỏi thăm bà ta xong, Lục Kiều Kiều liền bảo An Long Nhi trèo lên gỡ tấm gương xuống.
Lục Kiều Kiều cầm gương trong tay, lật lại xem mặt sau. Ở mặt sau tấm gương có một số vòng tròn nhỏ được vẽ từ những đường cong liên tiếp bằng chu sa màu đỏ sậm, tạo thành chuỗi ký hiệu kỳ quái.
Lục Kiều Kiều nhận ra đây là sát cục phong thủy, được gọi là… Quỷ kính chiếu đường. Cô lập tức ý thức được rằng, có người tinh thông phong thủy đang giết người, vả lại còn xuống tay rất nặng. Bản thân cô không có ân oán gì trong đám giang hồ, không cần thiết phải chuốc việc vào người, nên vội vã quay ra, dắt An Long Nhi rời khỏi phường Giáp Công.
Cuối ngõ phường Giáp Công, có người đàn ông tựa vào gốc cây bạch lan, lấy chiếc mũ cỏ nát che mặt như nằm ngủ, song ánh mắt lạnh buốt lộ ra từ kẽ hở trên mũ lại đang dõi theo bóng Lục Kiều Kiều bỏ đi.
“Giở trò quỷ gì vậy, Quỷ kính chiếu đường, khiến cả thành nghiêng ngả như thế này.” Một giọng trầm đục, cất lên đầy tức tối.
Kẻ nói lời này là một gã đàn ông cao to, nuôi một chòm râu dê dưới cằm, trong mặc áo dài ngoài khoác áo chẽn ngắn, cầm chiếc quạt gấp trong tay, thắt lưng đeo túi, ăn vận kiểu thương nhân. Kỳ thực, hắn chính là Phó sứ Chương Bỉnh Hàm của phủ Quốc sư.
Hắn đứng trên một ngọn đồi, hướng về phía ngôi mộ tọa Nam hướng Bắc, trên bia mộ khắc dòng chữ “Quách công Thủ Thành chi mộ”. Sau lưng có bốn người đàn ông khác cũng ăn vận cùng một kiểu thương nhân.
Chương Bỉnh Hàm nói tiếp: “Đúng là việc công phải làm, thiên hạ phải giữ, song các ngươi làm kín kín một chút không được à? Dùng gì không dùng, lại dùng sát cục Quỷ kính chiếu đường, khiến người ta nổi điên lên? Hử?”
Trong số bốn kẻ bị mắng, có một kẻ trả lời: “Giờ là tháng Bảy, dùng Quỷ Kim Dương thoái thần chiếu sát của tháng trước thì hiệu nghiệm rất nhanh… ngài cũng đâu có nói phải dùng sát cục gì…”
Chưa nói hết câu, Chương Bỉnh Hàm chẳng thèm ngoảnh đầu, trở tay tát thẳng vào mặt tên vừa trả lời đánh “bốp” một tiếng.
Hắn phồng mồm trợn mắt quay lại, đối diện với tên kia, nói mà nước bọt bắn phèo phèo vào mặt đối phương: “Bốn hộ họ Quách ở trấn Bảo Điền, phát điên giết nhau trong tiệc đầy tháng, làm cả trấn rúng động, hai anh em họ Quách làm ăn trong thành, giết người như hóa dại, máu me lênh láng, kinh động toàn thành. Giờ dẹp sạch dưới quê, dẹp sạch trong thành, có muốn ta dẹp luôn cả đầu mày không hả?”
Chương Bỉnh Hàm khua tay vạch một nhát lên cổ tên kia, khiến hắn khiếp vía, run bần bật.
Tất cả im lặng phăng phắc. Một lúc sau, Chương Bỉnh Hàm mới sa sầm nét mặt nói với bốn tên kia: “Vụ việc lần này, ta đã thu xếp chỗ quan phủ rồi. Từ rày trở đi dùng cách gì cũng phải thông qua cửa của ta đã!”
Nói đoạn phẩy mạnh ống tay áo, quay người xuống núi. Bốn tên bị chửi vâng vâng dạ dạ bám theo sau. Chương Bỉnh Hàm đột ngột quay phắt lại, lớn tiếng quát chúng: “Đi theo ta làm gì? Gỡ cái gương Quỷ kính chiếu đường mang đi ngay, đừng để dân chúng nhặt được lại làm tin đồn lan đi khắp nơi, khốn nạn! Toàn một lũ khốn nạn! Quanh đồi đâu cũng thấy mả…”
Tối đến, Lục Kiều Kiều vẫn nằm trên giường trúc bên giếng trời hút thuốc, giờ đã có An Long Nhi rót trà châm thuốc, cô càng hút càng đậm đà. Thuốc phiện có mùi hương rất đượm, loại thuốc Vân Nam Lục Kiều Kiều hút lại là loại thượng phẩm trong nước, mùi vị càng xa càng rịn, nếu không có mùi thuốc đậm đặc hơn từ quán Vạn Hoa bên cạnh, mấy hộ xung quanh chắc chắn sẽ biết Lục Kiều Kiều tối nào cũng hút đã thuốc phiện trong nhà.
Cô nói nhát gừng với An Long Nhi: “Quỷ kính chiếu đường là thứ tà môn trong phong thủy Thiên Tinh. Thuật phong thủy vốn dĩ cũng giống như tiền, không phân tốt xấu, chỉ xem xem mình dùng nó vào việc chính hay việc tà.”
An Long Nhi đến ở với Lục Kiều Kiều mấy hôm, ngày nào cũng gặp những điều mới lạ, Lục Kiều Kiều nói với thằng bé câu gì, nó đều cố gắng ghi nhớ.
“Những hình vẽ ở mặt sau tấm gương là bùa chú Quỷ Kim Dương, trên trời có nhị thập bát tú, Quỷ Kim Dương là một tinh tú trong số đó, là chủ tinh của tháng trước. GIờ mày chưa hiểu, sau rồi sẽ hiểu.” Lục Kiều Kiều nói với giọng trễ nải, khiến An Long Nhi cảm thấy rất dễ chịu.
“Chỉ treo gương không thôi cũng chẳng có tác dụng gì, song mặt sau lại dùng chu sa vẽ bùa chú thì nguy hại lắm…”
An Long Nhi lắng tai nghe, không nói một lời.
“Vả lại…” Đang giảng giải, Lục Kiều Kiều chợt chống người dậy, buông thõng một câu “Xem có còn rượu không, rót cho cô một chén…” đoạn lại đổ kềnh xuống giường.
“Vả lại cái gương này được đặt vào vị trí dữ nhất trong tháng này, ấy là vị Quỷ Kim Dương hướng Tây Nam. Bùa và gương, phương vị và thời giờ phối hợp chuẩn xác, cùng lúc phát ra hung lực rút khí, vậy nên trong phút chốc Quách đại nhân đã mất mạng.”
An Long Nhi rót cho Lục Kiều Kiều một ly rượu cao lương, còn bày lên một đĩa mì rán dầu với tai lợn kiểu Quảng Châu.
“Có điều…có điều cũng không nên lấy mạng trẻ con… đến trẻ con cũng không thoát được chứng tỏ mộ tổ bị vỡ rồi, có người muốn Quách đại nhân phải tuyệt tử tuyệt tôn…” Lục Kiều Kiều hút thuốc, uống rượu, mỗi lúc một mơ màng, song miệng vẫn lẩm bẩm nói: “Lại còn cả ông chủ Quách nhảy xuống Châu Giang tự sát nữa… có lẽ là người có cùng mộ tổ… cả họ chết sạch…”
Lục Kiều Kiều nói xong, mơ màng ngủ thiếp đi.
An Long Nhi thấy Lục Kiều Kiều đã ngủ, liền ngồi dưới ánh trăng ngắm khuôn mặt cô một lúc, sau đó thu dọn tẩu thuốc và ly rượu, vào phòng lấy ra một tấm chăn mỏng đắp lên người Lục Kiều Kiều.
Đã đến thời kỳ an toàn của Lục Kiều Kiều, trong cữ thuốc buổi sáng, cô tự bói cho mình một quẻ.
Sống ở đời ai cũng muốn có chút mới mẻ và bất ngờ, có những việc không muốn biết kết quả, dĩ nhiên có thể phó mặc cho trời, đi bước nào hay bước ấy, miễn là có khả năng gánh chịu là được; song cũng có việc muốn biết trước kết quả, bói một quẻ đề phòng bất trắc. Ví như hôm nay, cần phải đảm bảo không chút sơ sảy.
Chiếc cốc chứa mấy đồng tiền đồng kêu leng keng một tiếng, úp xuống trà kỷ, sáu đồng tiền sắp thành quẻ Hàm, Lục Kiều Kiều cười nhạt, nghĩ bụng: Quẻ tượng lợi tiểu nữ nhân, đại nữ nhân bị khắc bất lợi. Mình chỉ là tiểu nữ nhân mà thôi, đại nữ nhân phải chịu thiệt thòi một chút vậy.
Lục Kiều Kiều cài bông hoa màu đỏ nhạt lên đầu, ngồi trong phòng khách vừa bưng chén uống trà, vừa dạy bảo An Long Nhi đang đứng bên cạnh. Trên trà kỷ đặt một chiếc la bàn to cỡ bàn tay.
“Buổi sáng ngủ dậy không cần gánh nước, mày rất may mắn vì trong nhà có cái giếng, song hằng ngày phải bảo đảm trong chum có nước…”
“Sau khi dậy nhớ đun nước, pha nước ấm đợi cô rửa mặt, cô rửa mặt xong thì pha trà cho cô…”
“Uống trà xong cô phải hút thuốc, mày đứng bên cạnh hầu thuốc, rót nước thắp đèn là được, đừng có đi qua đi lại trước mặt cô, hoa mắt…”
“Ngày chẵn thì theo cô ra ngoài kiếm người, ngày lẻ thì mày ở nhà… hôm nay không tính, chốc nữa cô có việc…”
“Ban ngày mày ở nhà, không được ra khỏi cửa, đến trưa tự làm cơm mà ăn, nhưng không được ăn lạp xường trong bếp đâu đấy, chỉ được ăn chay, tối cô về mới được ăn thịt…”
“Lúc cô không có nhà phải quét dọn, đổ bô, giặt quần áo, mà phải đọc hết hòm sách kia nữa… Phải rồi, mày có biết chữ không?”
An Long Nhi đáp: “Đã học hai năm ở trường tư.”
“Nhà mày có tiền gớm, đi học ở trường tư cơ đấy…” Lục Kiều Kiều tiếp tục dặn dò: “Sách trong hòm gỗ kia cứ mỗi tháng phải xem một cuốn, năm ngày kiểm tra một lần, không trả lời được thì ngày hôm đó cắt cơm, bốn hôm sau đó, mỗi ngày chỉ được ăn một bát cơm trắng, không rau không thịt. Nếu ăn vụng, cô sẽ treo ngược mày lên đánh cho một trận rồi báo quan bắt nhốt vào tù…”
“Cuốn sách mỗi tháng đọc xong thì giao lại cho cô, kiểm tra lại một lượt, không đạt yêu cầu sẽ bị treo một ngày, đánh một trận, hai ngày không được ăn cơm…”
An Long Nhi nhớ ra ở góc tường trong gian phòng mé Tây có một hòm sách, thực ra cái hòm không lớn lắm, khiêng ra vừa khéo có thể làm ghế, ngồi được một người.
“Cô Kiều, những chỗ cháu không hiểu có thể hỏi cô không?” An Long Nhi hỏi.
Lục Kiều Kiều đặt ly trà xuống, gắt gỏng đáp: “Chữ nào không biết thì hỏi, nhưng đọc mà không hiểu câu có nghĩa gì thì đừng có làm phiền cô, mày cứ học thuộc lòng, đọc cho cô nghe là được.” Cô cầm cái la bàn trên trà kỷ lên, nói: “Trong hòm có một cuốn gọi là La Kinh giải định, xem xong cuốn đó có thể hiểu được cái la kinstrong] này.”
[2] La bàn phong thủy.
An Long Nhi thấy trên la kinh có mười mấy vòng khắc chữ và ký hiệu chằng chịt, đưa tay ra định đón lấy xem.
Lục Kiều Kiều giật ngay lại, hất hàm bảo An Long Nhi: “Mày chưa dùng được cái này, loại nhỏ này mày chưa đủ tư cách dùng. Trong phòng mé Tây có loại to, mày tự tìm lấy mà xem. Sau một năm, tức là Trung thu sang năm, sẽ kiểm tra về la kinh, nếu vẫn không biết xem, tao lập tức cho mày bán lợn đi Kim Sơn, đời này đừng mong quay lại tỉnh thành nữa…”
Hồi ấy ở Quảng Đông có rất nhiều người bán mình sang nước Mỹ khai phá miền Tây, có người đi đãi vàng, cũng có người đi làm đường sắt, kiểu bán mình đi làm cho Tây gọi là “bán lợn”. Bấy giờ cứ đi Mỹ đều gọi là đi Kim Sơn, các công nhân người Hoa sau khi “bán lợn đi Kim Sơn” gặp muôn vàn khổ nạn, mười phần đến tám chín là một đi không trở về. An Long Nhi không biết thế nào là bán lợn, song nếu cả đời này không được quay trở lại nữa thì chẳng phải việc tốt đẹp gì, thằng bé liền rụt hai tay lại, “vâng” một tiếng.
“Tối cô sẽ dắt mày đi chợ, mày có biết nấu cơm không? Thôi, khỏi cần đáp, biết hay không cũng vẫn phải nấu, bỏ cả đống tiền mua mày về, có tí việc vặt ấy cũng không làm được thì còn làm ăn gì…” Lục Kiều Kiều định ra khỏi nhà, bèn nói với An Long Nhi: “Giờ cô ra ngoài, khi cô về mày phải dọn nhà sạch sẽ rồi đấy!”
“Dạ vâng, thưa cô.” An Long Nhi đã sớm quen với việc bị sai bảo.
Sau khi ra khỏi nhà, cô tiện tay khóa luôn cửa từ phía ngoài. An Long Nhi quả nhiên lục thấy chiếc la kinh lớn trong căn buồng mé Tây. Chiếc la kinh tròn tròn dẹt dẹt, to cỡ vung nồi, trên bề mặt khắc đến ba mươi mấy vòng toàn chữ là chữ, nhiều hơn cái la kinh nhỏ Lục Kiều Kiều cầm trong tay nhiều.
Lục Kiều Kiều hôm nay không đi xem bói cho kỹ nữ, cô xách túi thơm, phe phẩy quạt the tròn, rời phố Bình Khang đi tới bên dòng Châu Giang, rẽ trái là phố lớn phồn hoa toàn những căn nhà kiểu Tây san sát một bên, gọi là Thập Tam Hàng. Cửa hàng cửa hiệu ở Thập Tam Hàng mọc lên như nấm, hằng ngày ngựa xe như nước, người qua kẻ lại tấp nập, các hãng buôn hàng xuất nhập khẩu phía Nam Trung Quốc đều tập trung ở đây, có thể nói là một trung tâm của cải chính cống.
Lục Kiều Kiều bước vào một cửa hiệu không lớn lắm, phía trên cửa có một biển hiệu, đề ba chữ “Ngũ Nhật Phát”.
Cửa hiệu có hai tầng, nhà xây cao, nên bước vào liền cảm thấy mát lạnh. Tầng một kê năm sáu chiếc bàn, ba nhân viên đang bận việc, song lại có vẻ ung dung nhàn hạ, rất không tương thích với không khí nhộn nhạo ngoài đường, một người đang dùng bàn tính, một người đang xem sách, còn có một ông già trông như chưởng quỹ đang tưới nước vào một bồn hoa. Vị chưởng quỹ già thấy Lục Kiều Kiều bước vào cửa, vội cất lời chào: “Lục tiểu thư đến rồi à, công tử đang ở trên lầu đấy.”
Lục Kiều Kiều gật đầu cười nói: “Phiền bác báo cho một tiếng được không ạ?”
Chưởng quỹ già ngẩng đầu gọi: “Ngũ công tử! Ngũ công tử!” Giọng nghe sang sảng.
Từ cầu thang lầu hai, một chàng trai mặc áo sơ mi trắng kiểu Tây bước xuống, trông chừng hơn hai mươi tuổi, vóc người trung bình, mặt mũi trắng trẻo, thoạt nhìn đã biết là con nhà giàu sang sống trong nhung lụa từ nhỏ. Anh ta là cậu chủ của cửa hàng này, tên Ngũ Tuấn Sinh. Để thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu, Ngũ Tuấn Sinh đã cùng ông chủ Ngũ Nhật Phát xuất dương hai lần, sau khi quay về nước liền thích mặc trang phục phương Tây. Thời gian ở cửa hàng, anh ta đều lấy danh nghĩa xúc tiến thương mại Hoa – Dương mà mặc bộ âu phục đem từ đế quốc Đại Anh về. Ngũ Tuấn Sinh vừa thấy Lục Kiều Kiều đã mừng ra mặt, vội chạy xuống cầu thang, vừa chạy vừa nói: “Lục tiểu thư đến rồi đấy à, dạo này làm ăn khá chứ?”
Lục Kiều Kiều mỉm cười, khẽ gật đầu đáp lời một cách rất tình tứ: “Chào công tử, nhờ phúc của công tử cả.”
“Xin mời Lục tiểu thư lên lầu bàn chuyện được không?” Ngũ Tuấn Sinh vồn vã nói.
Ngũ Tuấn Sinh lên lầu, bước vào một căn phòng. Ngũ Tuấn Sinh lập tức theo sau, đưa tay khóa cửa lại, tay kia đột nhiên ôm lấy eo Lục Kiều Kiều, quay người lại ghì Lục Kiều Kiều lên cửa.
“Kiều Kiều ơi, nhớ em chết mất, sao mãi chẳng thấy qua đây…” Ngũ Tuấn Sinh vừa thấp giọng thầm thì, vừa áp đầu vào cổ Lục Kiều Kiều, ra sức hít hà mùi hương trên cơ thể cô.
Lục Kiều Kiều ngoan ngoãn thả lỏng cơ thể, nghiêng đầu sang một bên, nhắm nghiền mắt, hổn hển “vâng” một tiếng thật dài đáp lại.
Ngũ Tuấn Sinh một tay vén vạt áo the màu lục dài tới gối của Lục Kiều Kiều lên, luồn vào lưng cô từ phía sau, sờ lên tấm lưng mịn màng, sau đó siết chặt lấy eo cô, khiến ngực cô áp chặt vào mình. Ngực Lục Kiều Kiều bị ép chặt, bất giác “ư” lên một tiếng. Tay kia của Ngũ Tuấn Sinh khe khẽ nâng đầu cô, định hôn lên đôi môi đang hé mở.
Lục Kiều Kiều mím chặt môi lại, quay mặt sang một bên, đưa mắt lườm Ngũ Tuấn Sinh: “Nhẹ nhàng một chút, quần áo mà rách em không ra khỏi cửa này được đâu. Buông tay ra đã nào…”
Từ tầng hai của cửa hàng Ngũ Nhật Phát có thể trông thấy đảo Sa Diện ở phía đối diện, đảo Sa Diện là cồn đất nhỏ trên dòng Châu Giang, sau này nơi đây sẽ trở thành tô giới của Anh Pháp. Cầu thang đi lên tầng hai có một hành lang, bên hành lang có ba căn phòng, đều là nơi ông chủ làm việc và nghỉ ngơi, ngày thường thương khách giao dịch và đàm phán dưới tầng một, chỉ có những khách quan trọng mới được tiếp đãi trên tầng hai. Căn phòng đầu tiên nhìn ra sông, là phòng sổ sách của ông chủ, có nhiều đồ gỗ được chạm trổ tinh tế, ngoài bàn làm việc lớn kê giữa phòng, góc tường còn có một chiếc giường lớn làm bằng gỗ trắc bóng loáng, làm chỗ hút thuốc phiện.
Hai cơ thể lõa lồ cuộn lấy nhau trên giường.
Cơ thể Lục Kiều Kiều nhỏ nhắn nhưng đẫy đà, toàn thân nhấp nhô như những đợt sóng, miệng khẽ kêu: “Nhẹ thôi… chậm thôi…” Ánh nắng rọi qua lớp cửa sổ pha lê sặc sỡ, đổ nghiêng lên người cô, lấp lánh theo từng nhịp rung của cơ thể.
Cơ thể được lấp đầy như sắp nở tung, từng tấc da thịt đều được một cơ thể khác bọc chặt lại, có vậy mới khiến cô có chút cảm giác an toàn, vững chắc, chỉ cần nhắm mắt lại, mọi việc dường như chưa từng xảy ra…
Bất kể Lục Kiều Kiều nằm sấp hay nằm nghiêng, hai tay cô đều ôm chặt lấy thân mình, không thể để cơ thể tổn thương thêm nữa, để linh hồn và xác thịt của cô vĩnh viễn rời xa nơi đó trong nhịp va chạm…
Lục Kiều Kiều nằm nghiêng trên giường, từ vai đến eo, từ hông đến gót, nối liền tạo thành một đường cong tuyệt mỹ. Người cô quấn một tấm khăn lụa hoa màu đỏ sậm, đây là món quà Ngũ Tuấn Sinh mang từ kinh thành về cho cô.
Lục Kiều Kiều hút thuốc, lặng lẽ nhắm nghiền mắt lại. Ngũ Tuấn Sinh áp vào người cô từ phía sau, dùng chân kẹp lấy chân cô, hôn lên cổ và tóc cô, bàn tay chậm rãi lướt trên vai, trên cổ, ngực và bụng cô.
Con tim Lục Kiều Kiều đang bay đến một nơi khác. Mở cửa sổ nhìn ra, con sông đó đẹp như dòng Châu Giang, cồn đất giữa con sông ấy cũng giống đảo Sa Diện, lặng lẽ nằm ở ven bờ… Ở đó có tòa nhà trên cồn đất, cũng như nơi này, có thể ngắm dòng sông trôi xa tít tắp đến chân trời, có bóng cò trắng bay từ đằng xa lại, có hai con người…
“Vợ anh dạo này có tới đây không?” Giọng nói nhỏ nhẹ, hổn hển, ngân dài. Lục Kiều Kiều không định trả lời Ngũ Tuấn Sinh.
“Thường thì không đến, chỉ có mồng một, ngày rằm mới tới so sổ sách thôi. Bố anh đi Thượng Hải rồi, việc nhà đều do cô ấy cai quản.” Ngũ Tuấn Sinh như đứa trẻ ngoan, tồng tộc kể tuốt cho Lục Kiều Kiều. Câu trả lời này đã nằm trong suy đoán của Lục Kiều Kiều, cô chẳng qua hỏi bừa một câu để chuyển chủ đề mà thôi.
Tay Ngũ Tuấn Sinh mon men lần đến mé trong đùi Lục Kiều Kiều. Tay của người đàn ông này rất nhỏ và mịn, điều Lục Kiều Kiều thích hơn nữa là, anh ta vừa dịu dàng lại vừa biết nghe lời, giống như kỹ nữ, sau khi xong việc cũng không lăn ra ngủ ngay, anh ta có thể khiến phụ nữ cảm thấy khoan khoái tự đáy lòng.
“Kiều Kiều, lấy anh đi. Vợ anh đến giờ vẫn chưa có con, để anh bảo với bố, ông ấy chắc chắn sẽ đồng ý việc của mình.”
Ngũ Tuấn Sinh là người chân thành. Ngay từ lần đầu tiên gặp Lục Kiều Kiều, sắc đẹp của cô, cơ thể của cô, và cả thái độ hững hờ của cô đều khiến Ngũ Tuấn Sinh hồn xiêu phách lạc. Nếu Lục Kiều Kiều đồng ý, anh ta thậm chí có thể cho cô danh phận bình thê, rước Lục Kiều Kiều qua cửa vào nhà mình.
Theo luật lệ Đại Thanh, người thiếp phải hầu hạ và phục tùng chính thê, sau khi chết bài vị không được xếp vào từ đường của họ tộc, con cái đẻ ra đều chỉ là “dòng thứ”, không được tiếp quản tài sản của gia tộc. Địa vị của bình thê cao hơn thiếp, mọi đãi ngộ đều có thể ngang hàng với chính thê, con cái sinh ra cũng được coi là “dòng đích”, có thể trở thành người thừa kế chính thức. Trong kết cấu gia đình “năm thê bảy thiếp”, ngoài chính thê ra, bốn vị trí có địa vị còn lại chính là của bình thê.
Lục Kiều Kiều trợn mắt thất thần, sau đó nhắm lại. Nếu muốn lấy người đàn ông này, cô có còn làm chuyện mèo mả gà đồng với anh ta ở đây nữa không? Một trong những nguyên nhân cô thích người đàn ông này là bởi anh ta đã có vợ.
Ngũ Tuấn Sinh thấy Lục Kiều Kiều không phản ứng, liền đưa tay lên sờ chiếc cằm nhọn của cô, đoạn nói: “Mấy bữa nữa anh sẽ đi Phật Sơn một chuyến, em đi cùng anh nhé? Chúng ta có thể ở bên nhau vài hôm.”
Lục Kiều Kiều nói: “Xa quá… mệt… không đi đâu… khi anh về cầm cho em hai chiếc bánh Mang Công…”
“Nhà em ở đâu? Anh có thể đến thăm em không? Lần nào cũng để em đến đây, anh sợ em mệt.” Ngũ Tuấn Sinh hỏi dò.
“Hơ hơ…” Lục Kiều Kiều cười nhạt, rít một hơi thuốc thật sâu, đợi đã nghiền, mới trả lời: “Anh đừng nằm mơ nữa, người ta là khuê nữ nhà gia thế, lẽ nào còn phải nằm sẵn trên giường đợi anh đến chơi sao?”
Lục Kiều Kiều biết Ngũ Tuấn Sinh lo lắng, khẽ vỗ mấy cái lên bàn tay đang sờ soạng bầu vú mình, đoạn nói tiếp: “Một thời gian nữa em lại đến, anh yên tâm, không có chuyện gì đâu.”
Ngũ Tuấn Sinh không phải lo lắng không đâu. Theo luật lệ Đại Thanh, “phàm đôi bên thông dâm, đánh tám mươi trượng; kẻ có vợ chồng, đánh chín mươi trượng, dụ dỗ gian dâm, đánh một trăm trượng”. Cũng tức là, nếu trước khi kết hôn mà có quan hệ tình dục, bị người phát giác báo quan sẽ bị đánh tám mươi roi, đôi bên đều có vợ, có chồng mà nảy sinh quan hệ tình dục bên ngoài, sẽ bị đánh chín mươi roi; một bên đơn thân, và một bên đã kết hôn thì nghiêm trọng nhất, phải chịu đánh một trăm roi. Với sức chịu đựng của một người bình thường, đừng nói tám mươi trượng, chỉ cần đánh thật ba đến năm trượng là đã bất tỉnh rồi. Dĩ nhiên, trả một ít bạc, phía nha môn có thể “đánh vờ”. Song phiền phức nhất là từ đó về sau phải mang tội danh trên người, cả đời không ngẩng mặt nhìn ai được. Đối với thương gia chân chính như Ngũ Tuấn Sinh, danh dự tương đương với tiền bạc và địa vị, nếu tới kỹ viện có biển hiệu kinh doanh, chơi kỹ nữ rồi nộp thuế, đó là việc thiên kinh địa nghĩa. Song nếu việc với Lục Kiều Kiều bị moi ra, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.
Nếu Lục Kiều Kiều bằng lòng nhận bạc của Ngũ Tuấn Sinh, sau khi hành sự xong có thể coi Lục Kiều Kiều là hạng gái bao, toàn bộ trách nhiệm có thể đổ lên đầu Lục Kiều Kiều. Vấn đề là Lục Kiều Kiều trước nay chưa từng nhận tiền, chỉ lấy chút quà mọn, còn Ngũ Tuấn Sinh lại không sao dứt được diễm phúc trên trời rơi xuống này, bên cạnh niềm sung sướng còn có áp lực tâm lý.