Qua mồng tám tháng Chạp, thời tiết ngày một lạnh, những đụn mây âm u đè nặng trên bầu trời, trận tuyết đầu tiên vẫn chưa rơi. Dục Thanh xuống ngựa trước cửa nha môn lục bộ*, thở một hơi làm ấm bàn tay, hắn ngẩng đầu thấy đại ca mình – Thái tử đương triều đang khép vạt áo choàng đi tới, liền đón một câu: “Hoàng huynh.”
(Lục bộ gồm có sáu bộ lại, hộ, lễ, binh, hình, công.)
Dục Ninh cười với hắn, “Trời lạnh như vậy mà Lục đệ hãy còn năng đi lại.”
Dục Thanh buông tay đứng thẳng: “Hoàng huynh chăm chỉ, đệ đệ không dám lười biếng, cũng muốn tận lực giúp phụ hoàng phân ưu.”
Dục Ninh biết Lục đệ thường ngày xử thế lãnh đạm, nghe bản thân mình hỏi một câu ấm lạnh thường ngày đổi lại được mấy lời văn chương ngoài mặt thì cũng không nói thêm gì nữa, nâng chân muốn đi, lại nhớ tới người vừa đến lúc nãy, liền dừng bước.
“Công bộ Phương đại nhân vừa hồi kinh, mới đến Hộ bộ đã thưa mấy chuyện khai khẩn nông thôn thấy được trên đường. Lục đệ đã gặp chưa?”
“Chưa.” Dục Thanh vẫn cúi đầu, giọng vẫn lành lạnh, lại không giấu nổi sự hân hoan trên mặt. Dục Ninh thu hết vào mắt, khẽ cười, thầm nghĩ dù có xử sự làm người lão thành thỏa đáng như thế nào đi chăng nữa, thì đệ ấy vẫn chỉ là một đứa trẻ mới qua tuổi hai mươi.
Đoạn nghe Dục Thanh nói “Hoàng huynh đi cẩn thận, đệ vào Ban sai”.
Dục Ninh gật đầu, nhận dây cương gã sai vặt đưa rồi lên ngựa, Dục Thanh cung tiễn ngựa Thái tử đi xa mới xoay người trở về.
Đến đại đường Công bộ, Thượng thư nói Phương thị lang sáng nay báo cáo việc xong vừa rời khỏi Ban sai rồi. Trong lòng Dục Thanh thất vọng, ngồi xuống nhìn mấy bản điều trần, lại xem sổ sách báo cáo việc chỉnh đốn và sắp đặt phòng vụ đông hà của Phương Đỗ Nhược. Thấy đã chẳng còn việc để làm, chỉ đành từ Công bộ tới Binh bộ, sắc mặt trầm tĩnh như không có chuyện gì kiểm tra từ việc lớn tới việc nhỏ cả một buổi chiều.
Chập tối hồi phủ, ngựa vừa tới cửa tổng quản sự Tiểu Nhu liền nghênh đón trước cửa, bẩm lên: “Chủ tử đi đường có ổn không? Phương đại nhân đã đến rồi.” Dục Thanh xuống ngựa, uất khí trong lòng lại trầm thêm một tầng, rầu rĩ hỏi: “Tới lúc nào? Tới bao lâu thì đi?”, liền bỏ lại dây cương bước vào trong.
Tiểu Nhu theo sau cười, thưa: “Hai canh giờ trước đến đây, bây giờ vẫn chưa đi, đang ở trong hậu đường chờ ngài.” Bước chân chủ tử quả nhiên chậm lại, ngoảnh đầu liếc gã, khóe môi nhếch lên, một thoáng cười rất nhạt.
“Đã chuẩn bị bữa tối chưa?”
“Đã chuẩn bị rồi, đầu bếp trong phủ không biết nấu đồ Phương đại nhân thích, cũng đã sai người đi mua rồi ạ.”
“Làm tốt lắm, chút nữa thưởng cho ngươi.” Dục Thanh để lại một câu, bước nhanh về phía hậu viện.
Bên hành lang chợt nhoáng lên một bóng người, mặt mày nho nhã, gã nhướn mắt nhìn Tiểu Nhu, cười bảo: “Làm tốt lắm, vì chút phần thưởng mà ngay cả chủ tử nhà mình ngươi cũng tính kế.”
Tiểu Nhu tiến tới cười cười: “Ngươi đây là nói sai rồi, điện hạ nhà ta không thể so với Phương đại nhân nhà ngươi, quanh năm suốt tháng không thấy được mấy lần ngài cười. Dỗ chủ tử vui vẻ một chút, lẽ nào không phải là bổn phận của chúng ta?”
Tiểu Canh liếc gã: “Đúng sai gì cũng là ngươi có lý.”
Nói xong chẳng để ý tới gã nữa, tự tới nhà bếp tìm đồ ăn.
Dục Thanh xuyên qua hoa môn đi vài bước về phía hậu viện, chợt nghe tiếng sáo thanh tú vẳng lại, điệu khúc nhã nhặn, làn điệu dạt dào. Người tấu ắt hẳn tâm phải trong như nước, tại sắc trời chiều ngày đông u ám này, mới mang được cả làn sóng đầu xuân tháng hai xua tan hết giá lạnh. Dục Thanh không khỏi thả nhẹ bước chân đi theo âm thanh đó, người dưới hiên vẫn còn chuyên chú thổi sáo chẳng hề hay biết, một khúc kết thúc mới ngoảnh đầu lại, thấy hắn, ngây ra thoáng chốc rồi mỉm cười.
“Vi thần Phương Đỗ Nhược bái kiến Lục”
Thấy y cúi người xuống, Dục Thanh giơ tay nói: “Miễn đi. Rõ ràng ngươi biết ta thấy phiền.”
“Lễ quân thần luôn luôn không thể bỏ.” Phương Đỗ Nhược nói, đem sáo trúc cất vào trong tay áo.
“Trở về bao lâu rồi?”
“Hôm qua. Lúc về tới phủ đã muộn nên mới không tới.”
Dục Thanh gật đầu, “Đợi hai canh giờ rồi?”
“Cũng không tính là đợi, luyện khúc thôi. Chim chóc trong vườn hẳn là đã bị vi thần dọa không ít, xin điện hạ thứ lỗi.”
Dục Thanh thầm nghĩ ngày đông tháng Chạp giá rét này lấy đâu ra chim chóc, mỗi lần đều như vậy, rõ ràng là người ta nợ y, lại phải nói y thiếu nợ người ta thì mới vừa lòng. Nghe giọng nói ôn hòa lẫn mấy phần phỉnh nịnh của Phương Đỗ Nhược, tâm trạng Dục Thanh cũng thoải mái theo, chẳng buồn phản bác, chỉ hỏi: “Ta nghe khúc vừa rồi là khúc mới, học từ đâu vậy?”
“Vi thần tuần tra phòng vụ đông hà, ở tại phủ của Thái thú Biện Lương Tô Cẩn Khiêm đại nhân, đây là từ khúc Tô đại nhân tự sáng tác, vi thần nghe thấy thích, đành đòi xem khúc phổ.” Phương Đỗ Nhược ngẫm lại mà cười, “Đáng tiếc luyện mấy ngày cũng không bằng Tô đại nhân tự tấu, ý cảnh sâu xa, trong trẻo hòa nhã.”
Tô Cẩn Khiêm? Thật ra tên rất hay. Dục Thanh nghĩ nhân tiện nói: “Ta lại thấy điệu khúc này rất cổ hủ, không có quá nhiều ý mới.”
“Điện hạ không thích nghe, vi thần sau này sẽ không thổi trước mặt điện hạ nữa. Ở tiền đường của điện hạ luyện khúc, là vi thần lỗ mãng.” Phương Đỗ Nhược thấy Dục Thanh không hài lòng, không rõ vì sao nhưng cũng chỉ ngưng cười nhận tội.
Dục Thanh lòng nghĩ ngươi không thổi ở chỗ của ta, chắc sẽ thổi ở trước mặt người khác, ngoài miệng lại không thốt hẳn ra, chỉ nói: “Đàn sáo ca múa, từ trước tới nay ta chưa từng thích.”
Âm thanh của Phương Đỗ Nhược hạ thấp xuống một chút, chắp tay vái rồi nói: “Vi thần biết. Nhưng mà trong lục nghệ* vi thần chỉ thiện nhạc nghệ, nếu phế đi thứ này, vi thần liền chẳng biết gì hết, vạn mong điện hạ thông cảm.”
(Lục nghệ: lễ nghĩa, âm nhạc, cung tên, cưỡi ngựa, văn chữ, tính toán (lễ, nhạc, bắn, ngự, thư, sổ.)
Dục Thanh thấy y có chút hoảng, trong lòng hơi buồn cười, sắc mặt vẫn còn lạnh: “Mà thôi, sau này ngươi đừng có ở trước mặt ta xưng vi thần nữa, ta sẽ không trách ngươi việc này.”
Phương Đỗ Nhược cúi đầu càng sâu, “Vi thần sao dám.”
“Thế nào là không dám? Cũng có lúc ngươi gọi cả tên ta cơ mà.”
Khi hai người còn rất nhỏ. Dưỡng phụ của Phương Đỗ Nhược – Phương Bình Cư lão tướng quân là công thần đương triều, sau khi từ chức chỉ chuyên tâm niệm Phật, ngày Dục Thanh ra đời thân mẫu khó sinh mà chết, Tinh quan nói lệ khí quá nặng, thân mang huyết quang, vừa tròn bảy tuổi được đưa đến chỗ Phương lão tướng quân cho vào cửa Phật hơn nửa năm. Lúc ấy cùng Đỗ Nhược xưng cả tục danh, nghĩa như huynh đệ. Sau đó tuổi tác lớn dần, Phương Đỗ Nhược vào triều làm quan, liền theo lễ phép lấy điện hạ thay Dục Thanh, lấy vi thần mà tự xưng. Dục Thanh nhiều lần muốn y đổi lại, Phương Đỗ Nhược trước sau vẫn kiên trì.
“Vi thần nhỏ tuổi vô tri, đến giờ còn thấy đáng thẹn, không muốn điện hạ nhớ tới tận hôm nay.”
Dục Thanh hiểu Phương Đỗ Nhược muốn chặn miệng mình, còn tiếp tục cố chấp nữa chẳng hóa ra là mình hẹp hòi, lòng không khỏi tức giận, gằn giọng bảo: “Ngươi còn biết gọi ta một tiếng điện hạ ư, ta có thân phận gì, ngươi cũng tự suy nghĩ cho kĩ.”
Phương Đỗ Nhược biết Dục Thanh đã bực, hốt hoảng quỳ gối thưa: “Điện hạ bớt giận, Đỗ Nhược không nên kháng mệnh bất tuân, Đỗ Nhược đã biết.”
Dục Thanh thấy y như vậy, nhớ mùa đông giá rét, nền đá rất lạnh, tay muốn nâng y đứng lên, lại nghĩ hôm nay hai người xa lạ thế này, chẳng qua chỉ là thay đổi cách xưng hô thôi mà phải dùng đến cả thân phận hoàng tử. Chuyện chẳng như mong đợi, miễn cưỡng càng thêm miễn cưỡng, lòng không khỏi sinh bực, tay đưa ra đổi thành phất áo, giọng cứng ngắc: “Ta đi dùng bữa, ngươi tự đứng lên đi.” Dứt lời xoay người rời đi.
Phương Đỗ Nhược đứng dậy, chậm rãi theo chân.
Trong phòng ăn đèn đuốc sáng trưng, chậu than hừng hực, ấm áp vô chừng. Phương Đỗ Nhược nhìn thoáng qua đủ loại thức ăn mỹ vị đều là đồ mình thích, Dục Thanh trầm mặt ngồi ở vị trí thượng chủ, nhìn đăm đăm chung rượu trong tay, đôi đũa trước mặt không hề động tới.
Phương Đỗ Nhược nén lại tiếng than nhẹ trong lòng, lấy bình rượu được hâm nóng trên lư rót đầy giúp Dục Thanh, thấp giọng nói: “Dưới hiên lạnh lắm, vừa rồi đứng lâu như vậy, uống chút rượu nóng cho ấm người.”
Thân mẫu của Dục Thanh là phi tần do phiên bang cống nạp. Mỗi lần gặp, Yểu phi nương nương lão nhân đều nói Lục hoàng tử rất giống mẫu thân, đôi mắt trong ngần, nước da trắng trẻo, tóc mềm như tơ, màu như mật hòe*, ánh lên quầng sáng mong manh dưới nắng mai. Nay ngồi bên nến, mái tóc hắn dù vẫn rực rỡ song không tới mức chói mắt, thoảng lẫn sắc vàng ấm nhuận, làm bộ áo lụa trên người càng nhạt màu như tuyết. Phương Đỗ Nhược chẳng dám nhìn thêm, thấy Dục Thanh không đáp lời, lại nói: “Đỗ Nhược đợi cả chiều, lạnh vô cùng, điện hạ uống trước một chén, Đỗ Nhược mới có thể ăn vài thứ.” Lời vừa ra khỏi miệng, Dục Thanh quả nhiên cầm ly rượu lên, chầm chậm uống.
(Mật hoa hòe màu hơi vàng, chất mật sềnh sệch, thơm vừa, có hương dìu dịu của hoa hòe.)
Phương Đỗ Nhược từ nhỏ đã tuân theo giới luật tu tại gia, không thể uống rượu, nên đem canh nóng trên bàn chan cho Dục Thanh một bát, rồi tự mình lấy một bát, uống mấy ngụm ấm bụng, thấy Dục Thanh vẫn chẳng nói lời nào, tự thưa: “Đỗ Nhược đi vắng ba tháng, rất nhớ bánh mật hấp ở kinh thành, thực phiền cho điện hạ rồi.” Vừa nói chuyện vừa gắp một miếng bánh mật từ từ ăn, đoạn lại nói: “Đỗ Nhược ở ngoài, cũng rất nhớ điện hạ, không biết mấy tháng nay điện hạ có khỏe không.”
Làm sao mà khỏe được. Dục Thanh uất ức tự nhủ nhưng mở miệng thì lại nhạt nhẽo đáp: “Rất khỏe.”
Phương Đỗ Nhược nhìn hắn chốc lát, nhẹ nhàng cười, “Đã vậy, Đỗ Nhược yên tâm. Khi Đỗ Nhược không ở đây, mọi việc ở Công bộ phải phiền đến điện hạ, Đỗ Nhược lấy canh thay rượu xin mời điện hạ một chén.” Nói xong, cúi đầu thấy chén canh của mình trống không, không khỏi xấu hổ, định đứng dậy lấy thêm, lại nghe Dục Thanh nói: “Dùng bánh mật của ngươi kính đi.” Trong lời nói như mang chút ý cười.
Phương Đỗ Nhược cũng biết Dục Thanh cười mình, nghe Dục Thanh hết giận, tâm liền bình xuống, gắp tiếp một miếng bánh mật thưa: “Cung kính không bằng tuân lệnh. Mong điện hạ năm mới vạn sự như ý, ngọc thể kim an.”
Tiếng trống báo canh hai vẳng lại từ lầu canh đằng xa, Mạch Sở Địch thả kéo tỉa hoa trong tay xuống, đứng dậy phủi nhẹ vụn đất dính trên tà áo. Quả nhiên chốc lát cánh cửa phòng hoa bị đẩy ra, Tam hoàng tử Dục Sơ khắp mình vương đầy hơi sương.
“Ngươi ấm quá.” Người đến cởi áo choàng, thuận tay vắt lên một gốc hoa sơn trà gần cửa.
Mi mục đạm như bức thủy mặc của Mạch Sở Địch khẽ nâng, tuy lòng thương hoa kia lắm nhưng không thể nói ra lời, chỉ đành đáp: “Cả gian nhà lớn đều được sưởi, có thể không ấm sao.”
Lễ bộ Thượng thư Mạch Sở Địch ham thích hoa cỏ, trong triều không người không biết, nhưng việc y yêu hoa tới mức đem đáy phòng hoa nối liền với nhau, mùa đông hàng năm vì danh hoa mà đốt than sưởi ấm thì không phải ai cũng hay. Còn người được tận mắt ngắm đầy đủ lan xanh, dâm bụt tím, sen trắng, thược dược hồng giữa trời đông lạnh căm này, trừ Sở Địch và người làm vườn riêng thì chỉ có một mình Dục Sơ.
Mẫu thân Mạch Sở Địch là em ruột của Khắc quý phi, là dì của Dục Sơ.
“Trời lạnh như vậy, điện hạ tới làm gì?” Mạch Sở Địch thấy Dục Sơ ngồi trước bàn trà con trong phòng liền bước tới châm trà giúp hắn.
“Ngươi đoán không ra sao? Ta không tin.” Dục Sơ nhận trà song không uống, chỉ nhướn hàng mày như kiếm nhìn y.
Mạch Sở Địch thấy hắn vui vẻ, từ lâu đã đoán được tám chín phần, “Lục Diệu Am quả nhiên đáp ứng?”
“Dẫu không nói rõ nhưng không từ chối, án theo tính tình Lục Diệu Am thì đúng là đáp ứng rồi.”
Mạch Sở Địch gật đầu, “Lục Diệu Am chấp thuận, Việt Lâm Xuyên cũng coi như đồng ý, cứ thế Tam pháp ti(2) đều rơi vào tay điện hạ rồi.”
Dục Sơ kéo y lại ngồi trên đầu gối mình, nói: “Trước đây nghe thanh danh Lục Diệu Am cương trực liêm minh, thật chưa từng nghĩ có thể suôn sẻ như vậy.”
“Lục Diệu Am thân là Đô ngự sử, bao năm qua luôn gắng sức muốn chỉnh đốn lại kỷ cương quan lại, mà vị chủ tử giám thị Lại bộ kia lúc nào cũng nhân từ nương tay, nơi nơi bao che, khiến y không vừa lòng từ lâu. Mấy đại án gần đây trong Hộ bộ vừa lộ manh mối, vị chủ tử hiền lành kia lại định cứ nhân nhượng cho qua hòng yên thân, Lục diệu Am e càng thất vọng hơn nữa. Xét ra, điện hạ ngôn hành thiết thực, không một mực cổ hủ, làm mấy việc tưởng như vô ích đều có hiệu quả. Nếu nói chính trực liêm minh, Lục Diệu Am chính vì chính trực liêm minh mới đầu quân cho điện hạ.”
Giọng nói Mạch Sở Địch ôn nhuận, tình người hơn thiệt từ miệng y nói ra chỉ như bàn chuyện hoa cỏ, Dục Sơ nghe mà lòng khoan khoái, khẽ cười bảo: “Dù sao vẫn là ngươi nhìn người thấu triệt, ta phải cảm ơn ngươi rồi.”
“Điện hạ nói đùa, Tiểu Địch thay điện hạ phân ưu những điều này, cũng là vì bản thân Tiểu Địch.”
“Lời này là ý gì?”
“Tiểu Địch bình thường không ôm chí lớn, ngoài hoa cỏ ra thì triều cục thế nào, thiên hạ thế nào, cũng không thật sự quan tâm, điện hạ muốn nghe, Tiểu Địch nói cho điện hạ nghe. Hoàng thượng nhiều nhi tử như vậy, chỉ có điện hạ là ca ca huyết mạch tương liên với Tiểu Địch, ngày sau dù đổi dời ra sao, Tiểu Địch vẫn muốn sống yên ổn, chăm hoa giỡn cỏ, không nhờ điện hạ nhân nhượng, còn có thể dựa vào ai đây?”
Dục Sơ nghe thế nhắm mắt lại, ngửa đầu dựa vào lưng ghế, “Những điều ngươi nói, ta đều hiểu…”
“Điện hạ mệt sao? Tôi gọi người hầu đem tràng kỷ đến cho điện hạ nghỉ được không?” Mạch Sở Địch nói xong định đứng dậy.
“Không cần đâu, như vậy là tốt rồi, ngươi ở cùng ta một lúc rồi ta sẽ về.”
Mạch Sở Địch yên lặng chốc lát, dựa đầu vào vai Dục Sơ: “Nguyên Đán sắp đến rồi.”
“Cơ thể ngươi không khỏe, những chuyện không cần thiết thì đừng nhọc lòng.” Dục Sơ nhẹ đáp một câu, không nói nữa.